Loạt dự án tỷ USD của điện gió ngoài khơi Việt Nam
Loạt dự án có vốn đầu tư hàng tỷ, thậm chí hàng chục tỷ USD đang chạy đà cho thấy sức hấp dẫn của điện gió ngoài khơi Việt Nam với các nhà đầu tư.
Trong số này, phải kể đến dự án điện gió ngoài khơi Thăng Long Wind, quy mô 3,4 GW, tổng mức đầu tư lên đến 11,9 tỷ USD (tương đương khoảng 274.000 tỷ đồng). Tháng 7 tới, dự án này sẽ hoàn tất việc lắp đặt phao nổi để tiến hành thu thập số liệu hải dương học (sóng, gió, dòng chảy…) tại khu vực khảo sát.
Hay như dự án điện gió ngoài khơi La Gàn – liên doanh giữa Công ty cổ phần năng Năng lượng dầu khí châu Á (Asiapetro), Novasia Energy và Tập đoàn Copenhagen Infrastructure Partners (CIP, Đan Mạch), công suất 3,5 GW, vốn đầu tư cũng lên khoảng 10,5 tỷ USD (tầm 242.000 tỷ đồng).
Cách đây hơn một tháng, đại gia năng lượng Đan Mạch – Tập đoàn Orsted cho biết chọn Việt Nam là điểm đầu tư tiếp theo vào điện gió ngoài khơi, sau loạt dự án thành công tại châu Á. Dự án điện gió ngoài khơi tại Bình Thuận đang được Orsted “để mắt” tới.
Không riêng nhà đầu tư ngoại, nhà đầu tư trong nước cũng tham gia vào “cuộc chơi” tỷ USD này. Tại Bà Rịa Vũng Tàu, HBRE Group và đối tác Pháp đã rót một tỷ USD (khoảng 23.000 tỷ đồng) vào dự án điện gió ngoài khơi 500 MW…
Theo các chuyên gia, với lợi thế đường biển dài hơn 3.000 km, mực nước biển thấp và tốc độ gió thổi thường xuyên cao, đặc biệt vùng phía Nam tốc độ gió trung bình ở độ cao 100 m đạt hơn 7-10 m trên giây… là những lý do khiến Việt Nam nổi lên là trung tâm điện gió ngoài khơi tại khu vực Đông Nam Á. Điều này đã hấp dẫn các nhà đầu tư.
Bà Liming Quiao – Giám đốc khu vực Hội đồng năng lượng gió toàn cầu (GWEC) phân tích, điểm mạnh của điện gió ngoài khơi là hiệu suất cao, khoảng 29-52%, gấp đôi điện mặt trời, cao hơn điện gió trên bờ và tương đương điện khí.
Cùng với công nghệ mới, theo bà Liming Quiao, hiệu suất của điện gió ngoài khơi tăng thêm 2,5% mỗi năm, nên loại năng lượng này có thể chạy phụ tải nền với nguồn khá ổn định, nhu cầu điều tiết điện lực bù cho thay đổi công suất là rất thấp.
Tiềm năng, cơ hội lớn, nhưng loại hình năng lượng này thường đi kèm với nhiều rủi ro đầu tư. So với chi phí đầu tư vào điện gió trên bờ, ven bờ, suất đầu tư điện gió ngoài khơi cao hơn 2 lần. Thời gian mỗi dự án từ lúc xây dựng tới vận hành thường kéo dài 5-7 năm, chưa gồm thời gian chuẩn bị các thủ tục đầu tư dự án, xin cấp phép, khảo sát địa chất, đo gió…
Điều kiện thi công trên biển cũng không dễ dàng, chi phí thi công, xây dựng lớn… nên dù được đánh giá là hiệu quả cao nhưng không phải nhà đầu tư, đơn vị thi công nào cũng đủ lực để tham gia. Chi phí xây lắp tại một dự án điện gió ngoài khơi thường chiếm khoảng 53% tổng chi phí dự án, chi phí phát triển khoảng 3%; khảo sát, dự phòng khoảng 4-5%…
“Giá turbin điện gió ngoài khơi rất cao, trung bình hơn 3 triệu USD một chiếc công suất 4,2 MW. Giá xây lắp rất cao do điều kiện thi công ngoài biển khó khăn (cách bờ 30-50 km)… Chưa kể chi phí bảo trì, bảo dưỡng hàng năm lớn nên chỉ những nhà đầu tư tiềm lực mạnh mới có thể tham gia vào cuộc chơi này”, một chủ đầu tư dự án điện gió tại Sóc Trăng cho biết.
Hiện suất đầu tư mỗi MWh điện gió ngoài khơi khoảng 83 USD, giảm hơn 4 lần trong vòng 10 năm (255 USD một MWh năm 2010) và dự kiến mức giá này giảm còn 58 USD vào 2025. Nhưng theo bà Liming Quiao, giá sản xuất điện gió ngoài khơi chỉ giảm khi thị trường đạt tới công suất lắp đặt nhất định. “Việt Nam nên tận dụng cơ hội phát triển điện gió ngoài khơi nhanh nhất để có thể đạt mục tiêu giảm chi phí sản xuất điện”, Giám đốc khu vực châu Á GWEC gợi ý.
Dự thảo Quy hoạch điện VIII lần đầu tiên đưa ra khái niệm điện gió ngoài khơi là các dự án điện gió tại khu vực có độ sâu đáy biển từ 20 m trở lên và mục tiêu công suất loại hình năng lượng này 2-3 GW đến năm 2030 (tương đương 1,5-2% tổng nguồn điện).
Các tổ chức quốc tế khuyến nghị, Việt Nam nên tăng công suất điện gió ngoài khơi lên 10 GW đến năm 2030, nhằm tận dụng tiềm năng sẵn có. Mặt khác, chỉ có dự án quy mô lớn mới đủ hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư phát triển các dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam. Tất nhiên, đi kèm với đó phải là cơ chế chính sách tương ứng cho phát triển loại hình này, một trong số đó là cơ chế về giá ưu đãi.
Giá cố định (FIT) ưu đãi cho điện gió trên biển hiện là 9,8 cent một kWh (tương đương 2.223 đồng) và trên bờ là 8,5 cent một kWh (khoảng 1.927 đồng). Giá này chưa gồm thuế VAT, được áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ nhà máy có ngày vận hành thương mại trước 1/11/2021 và áp dụng trong 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại. Tức là muốn được hưởng giá ưu đãi 9,8 cent một kWh, các dự án điện gió ngoài khơi phải vận hành trước ngày 1/11. Sau thời điểm này cơ chế giá sẽ thay đổi.
Đại diện Cục Điện lực & Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho biết, cơ quan này đang xây dựng cơ chế đấu thầu (tức không có giá cố định nữa, các nhà đầu tư bỏ thầu, giá thấp nhất thì áp dụng) cho các dự án năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời) sau ngày 31/10, thay vì giá FIT ưu đãi như trước.
Việc chuyển đổi này, theo các nhà đầu tư sẽ khiến họ gặp khó khăn. Rót 2 tỷ USD vào một dự án điện gió tại Sóc Trăng, ông Benard Casey – Giám đốc Phát triển Tập đoàn Mainstream Renewable Power Việt Nam lo lắng về tính rủi ro của dự án nếu nhà chức trách áp dụng ngay cơ chế giá đấu thầu sau ngày 31/10 năm nay.
Ông Benard phân tích, dự án ngoài biển có rất nhiều khó khăn, khác xa trên bờ, trong khi thời hạn nghiệm thu, đóng điện COD như nhau nên dự án ngoài khơi bất lợi hơn nhiều so với các dự án trên bờ. Covid-19 khiến việc phối hợp vận chuyển trang thiết bị, tua bin, cột tháp và các vật tư khác từ nước ngoài về Việt Nam lại càng khó khăn.
“Nếu áp dụng ngay cơ chế đấu thầu cho các dự án điện gió ngoài khơi, thay vì có lộ trình thực hiện giá FIT sẽ khiến nhà đầu tư gặp không ít rủi ro và kém thu hút vào lĩnh vực này”, ông nhấn mạnh và cho rằng, nhà chức trách nên cân nhắc việc kéo dài thêm thời gian áp dụng giá FIT cho 4-5 GW đầu tiên trên thị trường trước khi chuyển sang đấu thầu giá.
Tại cuộc họp trực tuyến của Hội đồng năng lượng gió toàn cầu mới đây, bà Liming Quiao nói, các nhà đầu tư điện gió ủng hộ cơ chế giá đấu thầu nhưng cần có giai đoạn chuyển tiếp trên cơ sở thực hiện giá FIT. Chẳng hạn, nên kéo dài áp dụng giá FIT cho 4-5 GW đầu tiên.
Trong khi đó, ông Sebastian Hald Buhl – Giám đốc Orsted tại Việt Nam nói, không phải cứ thực hiện cơ chế đấu thầu ngay là có mức giá thấp hơn giá FIT. Thậm chí, nếu không có giai đoạn chuyển tiếp từ giá FIT chuyển sang cơ chế đấu thầu, giá điện có thể tăng cao hơn.
Bởi, đầu tư của ngành điện gió ngoài khơi rất phức tạp, cần sự hợp tác giữa các nhà phát triển dự án và chính quyền, xây dựng được chuỗi cung ứng ngay tại địa phương. “Cơ chế giá gắn với việc đầu tư theo từng giai đoạn, chuyển từ FIT sang thực hiện đấu thầu, sẽ giúp các bên liên quan có thêm thời gian học hỏi, tăng thêm kinh nghiệm”, ông nói.
Trong khi đó, các nhà đầu tư điện gió ngoài khơi cần có một sự ổn định ban đầu, với cơ chế khuyến khích từ giá FIT để yên tâm rót vốn. Sau khi thị trường đã phát triển ở quy mô nhất định, Chính phủ đánh giá chính sách và có thể chuyển tiếp sang cơ chế giá mới khi phù hợp.
Anh Minh